Ban xuất huyết Henoch-Schonlein: chẩn đoán và điều trị
Đây là một dạng phát ban mà nguyên nhân chưa rõ; đặc trưng cơ bản về mặt giải phẫu bệnh là viêm mạch máu nhỏ. Mặc dù bệnh thường gặp ở trẻ em song người lớn cũng có thể bị.
Đại cương
Các hội chứng viêm mạch máu là một nhóm gồm nhiều bệnh lý khác nhau, đặc trưng về mặt giải phẫu bệnh bởi tổn thương viêm và hoại tử của các mạch máu. Nguyên nhân của hầu hết các loại viêm mạch máu đều chưa rõ. Nhiễm khuẩn là một yếu tố quan trọng trong bệnh sinh của một số loại. Trong bệnh viêm đa động mạch, 30 – 50% bệnh nhan có các bằng chứng của viêm gan B hoặc C. Hầu hết bệnh nhân mắc bệnh cryoglobulin huyết hỗn hợp bị nhiễm virus viêm gan C.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn và bệnh giang mai có thể phối hợp với viêm mạch máu và một số ít trường hợp sau nhiễm herpes zoster có thể có viêm mạch máu ở thần kinh trung ương. Phản ứng thuốc, đặc biệt với penicillin, sulfonamid và allopurinol có thể gây ra bệnh lý huyết, thanh có kèm theo viêm mạch máu. Người ta vẫn chưa xác định được mối liên quan về mật bệnh lý trong những rối loạn này, tuy nhiên có thể thấy hiện tượng lắng đọng các phức hợp miễn dịch trong hệ thống máu.
Mặc dù viêm mạch máu xuất hiện trong nhiều bệnh khác nhau, song đây chỉ trình bày một số bệnh lý chủ yếu.
Chẩn đoán
Đây là một dạng phát ban mà nguyên nhân chưa rõ; đặc trưng cơ bản về mặt giải phẫu bệnh là viêm mạch máu nhỏ. Mặc dù bệnh thường gặp ở trẻ em song người lớn cũng có thể bị. Người ta đã có những phát hiện về tình trạng tăng nhậy cảm với aspirin, thức ăn và nghiện thuốc. Tổn thương phát ban trên da điển hình xuất hiện ở chi dưới nhưng cũng có thể thấy ở bàn tay, cánh tay và ở thân mình.
Thường thấy những mảng phù khu trú xuất hiện, đặc biệt ở vùng mu bàn tay. Các biểu hiện khớp có mặt ở phần lớn bệnh nhân, thường gặp là ở khớp gối và khớp cổ chân. Đau bụng do viêm mạch máu ruột thường kèm chảy máu tiêu hóa. Triệu chứng đái máu, biểu hiện của tổn thương thận có thể hồi phục song đôi khi tiến triển tới suy thận.
Sinh thiết thận thấy viêm cầu thận từng đoạn với các thể hình liềm và lắng đọng IgA và đôi khi là IgG ở màng đáy cuộn mao mạch. Ngoài tốc độ lắng máu tăng, các xét nghiệm khác thường không có gi đặc biệt, số lượng tiểu cầu bình thường hoặc tăng.
Điều trị
Bệnh thường tự khỏi, kéo dài 1 – 6 tuần và hết nếu như không có tổn thương thận nặng. Vai trò của điều trị vẫn chưa rõ. Ở một số ít bệnh nhân, liều cao của globulin miễn dịch có thể ổn định tình trạng viêm thận đang tiến triển.