Mục lục bài viết
Hội chứng lâm sàng
Hội chứng khớp mỏm khớp bên cột sống cổ là tập hợp các triệu chứng bao gồm đau cổ, đầu, vai và phần gốc chi trên, đau lan tỏa không theo khoanh da.
Đau thường mơ hồ và âm ỉ. Đau có thể một bên hoặc cả hai bên và được coi như là hậu quả của quá trình bệnh lý khớp mỏm khớp bên đốt sống cổ. Đau trong hội chứng khớp mỏm khớp bên cột sống cổ tăng lên khi cúi, ngửa cổ và nghiêng cổ sang hai bên.
Triệu chứng nặng hơn vào buổi sáng sau vận động thể lực. Mỗi khớp mỏm khớp bên cột sống cổ nhận phân bố thần kinh từ hai khoanh tủy, nó nhận các sợi từ nhánh lưng ở đốt sống tương ứng và một đốt sống phía trên. Cách phân bố này giải thích cho bản chất đau mơ hồ của hội chứng này và lý giải vì sao phải phong bế rễ thần kinh lưng từ đốt sống phía trên để có được hiệu quả giảm đau đầy đủ.
Dấu hiệu và triệu chứng hội chứng khớp mỏm khớp bên cột sống
Hầu hết bệnh nhân với hội chứng khớp mỏm khớp bên đốt sống cổ đều nhạy cảm với sự sờ nắn sâu vào nhóm cơ cạnh cột sống : hiện tượng co thất khối cơ này cũng có thể xảy ra.
Bệnh nhân bị hạn chế tầm vận động của cột sống cổ, đau tăng khi cúi, ngửa cổ và nghiêng sang bên. Không có triệu chứng thiếu hụt vận động hay cảm giác trừ khi bệnh nhân đồng thời tồn tại bệnh lý đám rối cổ hay các bệnh lý chèn ép dây thần kinh.
Nếu tổn thương khớp mỏm khớp bên đốt sống cổ:
- C1-2, đau lan ra sau tai và vùng chẩm.
- C2 -3, đau có thể lan ra trước trán và mắt.
- C3-4 gây ra đau lan lên trên tới vùng dưới chẩm và xuống dưới vùng cổ sau bên, khớp
- C4-5 gây đau lan tới nền cổ.
- C5-6 lan tới hai vai và vùng giữa xương bả vai
- C6-7 sẽ lan tới hố trên gai và dưới gai.
Cận lâm sàng
- Khoảng ngoài 50 tuổi, hầu hết mọi người đều biểu hiện 1 vài bất thường của khớp liên mấu gian đốt sống cổ trên phim x-quang.
- MRI cột sống cổ nên được chỉ định cho những bệnh nhân có nghi ngờ bị hội chứng khớp liên mấu đốt sống cổ. tuy nhiên bất kỳ dữ liệu nào được thu thập từ kỹ thuật này chỉ có thể đưa ra một chẩn đoán mơ hồ.
- Để chứng minh rằng khớp liên mấu đang góp phần gây ra triệu chứng đau ở bệnh nhân, cần tiến hành tiêm nội khớp bằng thuốc tê tại chỗ.
- Nếu chẩn đoán còn chưa rõ ràng, cần thêm các xét nghiệm bổ sung, gồm: tổng phân tích tế bào máu, tốc độ máu lắng, xét nghiệm kháng thể kháng nhân, kháng nguyên kháng bạch cầu người (HLA)-B27, các xét nghiệm sinh hoá tự động để loại trừ các nguyên nhân khác gây nên đau.
Chuẩn đoán phân biệt
Hội chứng này là 1 chẩn đoán loại trừ dựa vào bệnh sử, khăm khám thực thể, kết hợp kết quả x-quang, MRI.
Chẩn đoán phân biệt với: chứng đau cổ, viêm bao hoạt dịch cổ, viêm xơ cơ cổ, viêm khớp và các bệnh lý tuỷ cổ, bệnh lý rể thần kinh, đám rối cổ và các dây thần kinh cổ.
Biến chứng và những sai lầm thường gặp
Do gần với đốt động mạch đốt sống và các mạch máu khác ở vùng này nên khả năng tiêm vào lòng mạch là rất cao, thậm chí tiêm 1 lượng nhỏ thuốc tê cục bộ vào động mạch đốt sống cũng có thể dẫn đến co giật.
Do gần não và thân não, tiêm phong bế vào đây có thể mất điều hoà do ngấm thuốc tê vào mạch máu. Nhiều bệnh nhân có triệu chứng đau đầu và đau cổ tăng lên tạm thời sau khi tiêm vào khớp. Vì vậy chúng tôi không sử dụng tiêm trong trường hợp này.